Tràm còn gọi là cây chè đông, chè cay, smach chanlos, smach tachah (Cam puchia), cajeputier (Pháp).
Tên kỹ thuật Melaleuca leucadendron L.
Thuộc họ Sim Myrtaceae.
Cây tràm cho ta các vị thuốc sau đây:
- Cành non với lá tươi hay phơi khô.
- Tinh dầu tràm thường gọi là tinh dầu bạch đàn.
- Tinh dầu tràm tinh luyện.
diễn đạt cây
Tràm
là 1 cây nếu như để vững mạnh bất chợt sở hữu thể cao đến 4 - 5m, nhưng
đều bị cắt xén thường chỉ còn là những cây bụi chừng 40 - 50cm. Trên
thân cây to lớp vỏ bong ra thành từng mảng to dài. Lá mọc so le, cuống
màu xanh vàng nhạt, phiến lá hình mác, trên sở hữu những gân chạy dọc
theo gân chính, lúc đầu mỏng và mềm, về sau thành dày, cứng và dòn,
thường là 4 - 8cm, rộng 10 - 20mm. Vì lá thường được quần chúng 1 số
vùng (Vĩnh Phúc, Phú Thọ) nấu nước uống thay chè lại mọc hoang ngòai
đồng do đó mang tên chè đồng, vị nước uống khá cay cho cên còn với tên
chè cay. Hoa nhỏ màu trắng vàng nhạt, ko cuống mọc thành bông ở đầu
cành, nhưng sau trong khoảng đầu bông hoa, cành lại mọc dài thêm và sở
hữu lá tthành ra bông hoa nằm giữa cành lá trông rất đặc thù. Quả nang
rất cứng 3 ngăn, hình tròn, các con phố kính 13mm, cụt ở đỉnh, đài cứng
còn đó ôm sâu vào quả. Hạt hình trứng dài khoảng 1mm.
Tên
cajeput do chữ Malaysia của tên cây cajeput hay kaiputi có tức thị gỗ
trắng vì cây này có màu nhạt trông xa như một rừng màu trắng.
Phân bố thu hái và chế biến
Cây
tràm mọc hoang tại khắp nơi trong nước ta từ Nam đến Bắc, rộng rãi nhất
tại miền Nam mọc thành từng rừng bạt ngàn sau những rừng sú.
Tại
miền Bắc, tràm đa dạng nhất tại thức giấc Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa
Thiên Huế. Tại Nghệ An, Hà Tĩnh và vùng đồi núi quận Kim Anh và Đa Phúc
(Vĩnh Phúc), huyện Phổ im (Thái Nguyên) cũng có 1 số ít tràm mọc hoang.
Trước
đây tràm hầu như chơi được khai thác. Thường dân chúng chỉ hái lá và
cành non về phơi khô nấu nước uống thay chè hay uống để giúp sự tiêu
hóa. Mãi tới vào khoảng năm 1990 cây tràm vùng Quảng Bình, Quảng Trị mới
đựơc khai thác để cất tinh dầu bán rộng rãi trên thị trường sở hữu tên
“dầu khuynh diệp” (đúng ra là tinh dầu) vì khuynh là nghiêng, diệp lá
lá, cây tràm mang lá mọc nghiêng không giống các cây lá khác, trong
khoảng ấy cây này có tên là khuynh diệp.
Ngoài nước ta ra, tràm còn thấy mọc hoang ở Campuchia, Indonesia, Philippin, Malaysia.
Công dụng và liều sử dụng
Trong
quần chúng. # thường dùng lá và cành non với lá để pha hay hãm hoặc sắc
sở hữu nồng độ 20g lá để trong một lít nước để uống thay nước giúp sự
tiêu hóa, chữa ho hoặc để xông. có thể tiêu dùng dưới dạng ngâm rượu sở
hữu tỉ lệ 1/5 có tên cồn bạch đàn cộng 1 công dụng như trên có liều hai -
5g cồn một ngày.
rộng rãi nhất là tinh dầu. Thường dùng nguyên
chất để xoa bóp chữa đau nhức, thấp khớp, ho, cảm. mặc dầu tỉ lệ xineol
trong tinh dầu tràm phải chăng hơn trong tinh dầu bạch đàn giới thiệu
sau đây nhưng người ta cho rằng tinh dầu khử trùng của tinh dầu tràm lại
mạnh hơn tinh dầu khuynh diệp, người lớn và con nít đều với thể dùng
tinh dầu thuần chất để thoa bóp, người ta sở hữu thể uống tinh dầu có
liều X (10) đến L (50) giọt nhỏ vào nước thêm trục đường mà uống. sở hữu
tinh dầu tinh luyện mang thể chế thành thuốc tiêm có nồng độ 5 - 10
hoặc 20%. Ngày tiêm dưới da 1 - 2 ống chứa 0,10 - 0,20g tinh dầu.
Dung dịch tinh dầu tràm 5 - 10 hay 20% trong dầu còn được tiêu dùng sở hữu tên gometol để nhỏ mũi chống ngạt mũi.
Người ta còn dùng tinh dầu pha vào nứơc với nồng độ 2‰ để rửa những vết thương rất tốt.
(Theo các cây thuốc và vị thuốc Việt Nam)
của GS. ĐỖ TẤT LỢI
0 nhận xét:
Đăng nhận xét